Lợi ích của sản phẩm làm sạch trong chăm sóc da

Sự phát triển của xà phòng được sản xuất để làm sạch da là bước tiến quan trọng nhất trong việc giảm bệnh trên toàn thế giới. Một trong những mục tiêu chính của các tổ chức y tế toàn cầu là đưa ra khái niệm làm sạch với xà phòng đến các khu vực trên thế giới, nơi các bệnh truyền nhiễm lan tràn.

Làm sạch với xà phòng (nguồn: ảnh internet)

Về mặt hóa học cơ bản, xà phòng là muối acid béo tạo thành từ phản ứng giữa chất béo và chất kiềm. Xà phòng hòa tan chất bã nhờn và bụi bẩn môi trường, để nó có thể được rửa sạch bằng nước. Các cơ chế chà xà phòng trên da bằng tay hoặc tắm rửa mang lại lợi ích trong việc loại bỏ vảy da, vi khuẩn và vi nấm ra khỏi bề mặt da. Tuy nhiên, việc sử dụng quá nhiều xà phòng đã dẫn đến các vấn đề về da như tình trạng khô da. Điều này đã dẫn đến sự phát triển của các chất làm sạch với các lợi ích điều hòa da mà về mặt hóa học không phải là xà phòng, và chúng được gọi là các chất làm sạch. Các chất làm sạch, dù là dạng thỏi hay dạng chất lỏng, có thể được chia thành ba loại cơ bản: xà phòng, chất làm sạch không chứa xà phòng và dạng hỗn hợp. Xà phòng thật sự bao gồm các muối kiềm của axid béo chuỗi dài với độ pH từ 9 đến 10. Do pH kiềm này làm tăng độ pH của da sau khi làm sạch, dẫn đến sự phá vỡ lớp sừng và cảm giác căng da sau khi tắm. Tính kiềm hóa của da phá vỡ lớp phủ acid tự nhiên, màng acid bảo vệ da, có thể gây nên đáng kể tình trạng viêm da. Xác định được nhu cầu cần thiết để bảo vệ độ pH da ở mức 5,4 đã dẫn đến việc phát triển các chất làm sạch tổng hợp, được gọi là syndets, như natri cocoyl isethionat. Chất làm sạch Syndet, còn được gọi là chất làm sạch thẩm mỹ, có chứa ít hơn 10% xà phòng và được thiết kế với độ pH 5,5-7,0 để giảm thiểu kiềm hóa da. Loại thứ ba của chất làm sạch, được gọi là combar, bao gồm một xà phòng kiềm có chứa các chất hoạt động bề mặt với độ pH 9-10 đã được thêm vào. Combars là chất làm sạch nhẹ hơn so với xà phòng thật, nhưng sẽ làm sạch hoàn toàn hơn syndet. Ví dụ, xà phòng thực sự là một sự lựa chọn tẩy rửa tốt cho da quá dầu hoặc da dơ bẩn, trong khi combar là chất tẩy rửa tốt cho da bình thường với một lượng bụi môi trường vừa phải. Syndet là chất gây hại ít nhất đối với hàng rào bảo vệ da ở những người bị chứng khô da hoặc bất kỳ tình trạng viêm da nào. Nhiều dòng sản phẩm làm sạch hiện đang có mặt trên thị trường tập trung vào một trong ba nhóm nói trên, tuy nhiên phải có một cái gì đó độc đáo vì các mục đích tiếp thị, về mỗi chất làm sạch. Các khía cạnh độc đáo của mỗi chất làm sạch được tạo ra thông qua việc thêm vào các chất bổ sung đặc biệt. Các thành phần bổ sung làm sạch thông thường bao gồm các loại nước hoa, các chất bổ sung có liên quan đến da, nhất là các chất kháng khuẩn. Chất kháng khuẩn được sử dụng rộng rãi nhất trong cả chất làm sạch dạng thỏi lẫn dạng chất lỏng đã từng được sử dụng là triclosan, nhưng hiện nay là benzalkonium chloride. Triclosan hoạt động bằng cách ngăn chặn sự tổng hợp lipid trong thành tế bào vi khuẩn, do đó làm giảm lượng vi khuẩn trên da và giảm mùi hôi. Tuy nhiên, vào năm 2016, triclosan bị cấm ở Hoa Kỳ như là một thành phần trong các chất kháng khuẩn trong các thành phần làm sạch của người tiêu dùng. Các nghiên cứu để cung cấp việc làm sạch và ngăn ngừa sự phục hồi trong cùng một sản phẩm đã dẫn đến sự phát triển của sữa tắm. Vì sữa tắm là thể lỏng, kết hợp các thành phần thân dầu và thân nước được nhũ hoá thành một pha, có thể làm sạch và giữ ẩm đồng thời cho phép rửa đi các chất hoạt động bề mặt. Sữa tắm cần được sử dụng với lượng vừa đủ lượng nhủ tương cần thiết trong chất làm sạch, nhằm tạo ra hiệu ứng vừa làm sạch vừa mang tính dưỡng ẩm. Có thể làm giảm sự kết dính tế bào sừng ở bệnh nhân lớn tuổi cần một chất tẩy rửa tẩy tế bào chết. Điều này có thể được thực hiện thông qua việc bổ sung chất tẩy tế bào chết, như các thành phần từ các hydroxy acids vào các công thức chất tẩy rửa.

HỘI ĐỒNG CHUYÊN MÔN FOB®

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Huỳnh Văn Bá, Huỳnh Bạch Cúc (2023), Hệ thống sản phẩm làm sạch & chăm sóc da, tài liệu khoa học chăm sóc da thẩm mỹ cộng đồng, nhà xuất bản y học, tr.1-2.

2. Zoe Diana Draelos (2016), Hygiene Products, Cosmetic dermatology products and procedures, second edition, Wiley Blackwell, pp.75-160.